Công việc chính và kỹ năng thực hiện: Thẩm phán cần xác định sớm là quan hệ vay có lãi hay không có lãi để xác định loại hợp đồng, trên cơ sở đó xác định phạm vi thu thập chứng cứ và luật áp dụng phù hợp.
- Đối với hợp đồng vay không có thời hạn thì bên cho vay có thể đòi nợ bất cứ lúc nào, bên vay cũng có quyền trả nợ bất cứ lúc nào (Điều 474 BLDS 1995). Khi bên cho vay đã đòi nợ mà bên vay không trả nợ được thì đó là thời điểm xác định nợ quá hạn.
- Đối với hợp đồng vay có thời hạn thì quá thời hạn trả nợ bên vay không trả nợ được mới tính là nợ quá hạn.
- Dù là vay không có lãi thì bên vay vẫn phải trả cho bên cho vay một khoản lãi do nợ quá hạn. Khoản lãi này được tính theo lãi suất nợ quá hạn của Ngân hàng nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm với thời hạn từ khi nợ quá hạn đến khi xét xử sơ thẩm.
- Là hợp đồng vay không có lãi thì không phải thu thập chứng cứ về việc trả lãi nhưng vẫn phải chú ý nghĩa vụ chứng minh thuộc bên đưa ra sự kiện. Ví dụ: A. đòi nợ B. thì A. phải chứng minh có việc cho B. vay. Nếu B. khai rằng B. đã trả nợ cho A. thì nghĩa vụ chứng minh việc đã trả nợ là nghĩa vụ của B.
- Các tài liệu có giá trị chứng minh thường được thu thập là: giấy biên nhận vay tiền; giấy xác nhận nợ (sau khi vay mới viết nhưng có nội dung xác nhận sự kiện vay); sổ ghi nợ có bút tích của bên vay thể hiện họ biết nội dung ghi trong sổ...
|