- Khi xét xử vụ án hình sự, Toà án phải chứng minh đầy đủ những vấn đề quy định tại Điều 63 BLTTHS. Tuy nhiên, khi bị can, bị cáo là phụ nữ, ngoài việc chứng minh những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nói chung thì việc chứng minh những đặc điểm về nhân thân, hoàn cảnh của bị can, bị cáo là phụ nữ nói riêng cần phải đặc biệt hết sức chú ý. Ví dụ: cần chứng minh làm rõ hoàn cảnh của bị can, bị cáo, tình trạng sức khoẻ của bị can, bị cáo (có thai hay không có thai); đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi hay không…
- Khi áp dụng biện pháp ngăn chặn là bắt bị can, bị cáo là phụ nữ để tạm giam cần tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện, căn cứ để ra quyết định đúng pháp luật. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới ba mươi sáu tháng tuổi mà nơi cư trú rõ ràng thì không áp dụng tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây :
- Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; - Bị can, bị cáo được áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử ; - Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đầy đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia (Khoản 2 Điều 88 BLTTHS).
- Cần kiểm tra việc khám người của cơ quan điều tra có tuân thủ các quy định tại Điều 142 BLTTHS hay không, đặc biệt là quy định: «Khi khám người thì nam khám nam, nữ khám nữ và phải có người cùng giới chứng kiến » (Khoản 2 Điều 142 BLTTHS).
- Cần phải kiểm tra việc xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra có thực hiện đúng quy định tại Điều 152 và Điều 153 BLTTHS hay không?
- Việc xem xét thân thể phải do người cùng giới tiến hành và phải có người cùng giới chứng kiến. Trong trường hợp cần thiết thì có bác sỹ tham gia; - Không được xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm hoặc gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của người bị xem xét thân thể, của người tham gia việc thực nghiệm điều tra.
|